1. Nhận thức chung về an ninh, an toàn thảm họa thiên nhiên
Thuật ngữ “thảm họa” thường được hiểu là “bất kỳ sự cố nào xảy ra vượt quá các nguồn lực và khả năng khắc phục của các tổ chức hoặc những người trong khu vực xảy ra thảm họa”[1]. Theo Tập đoàn bảo hiểm Munich Re, “Các sự cố thiên tai có từ 10 người thiệt mạng trở lên hoặc gây thiệt hại trên 1 triệu đô la được coi là thảm họa”[2]. Xét về nguyên nhân, có thể phân biệt thảm họa thành 2 loại: thảm họa do thiên nhiên gây ra và thảm họa do con người gây ra. Xét về khả năng dự báo và tốc độ xẩy ra thì có thảm họa xảy ra nhanh và thảm họa xảy ra chậm.
Thiên tai là loại thảm họa có yêu cầu rất cao về hoạt động phòng chống, nhất là những vấn đề liên quan đến kiến thức và chi phí. Vì những thảm họa này thường xảy ra nhanh, đòi hỏi phải có sự phản ứng kịp thời. Cho dù là thảm họa thiên nhiên hay thảm họa do con người gây ra, chúng đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chẳng hạn, động đất có thể gây ra dịch bệnh, nạn đói nghèo, bất ổn… Do đó, khi đề cập đến “thảm họa”, người ta thường nói đến “những thảm họa” thay cho việc nói đến “một thảm họa” đơn thuần.[3]
Từ rất lâu trong lịch sử, thảm họa thiên nhiên đã tồn tại song hành với xã hội loài người và hậu quả do nó gây ra không thua kém so với hậu quả chiến tranh. Trong những thập kỷ gần đây, do môi trường sinh thái toàn cầu và khu vực ngày càng bị suy thoái làm cho khí hậu, thời tiết diễn biến bất thường, phức tạp, thiên tai ngày càng khốc liệt, khó lường, gây nên những hậu quả thiệt hại nặng nề về người và tài sản, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của nhiều nước. Nguyên nhân dẫn đến các thảm họa thiên nhiên có nhiều, song theo nhiều chuyên gia, một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra thảm họa thiên nhiên là biến đổi khí hậu.[4]
Năm 2011, Tổ chức nhân đạo quốc tế (OXFAM) đã công bố báo cáo về biến đổi khí hậu, theo đó thảm họa thiên nhiên liên quan đến biến đổi khí hậu trên thế giới đã tăng gấp 4 lần trong 20 năm trở lại đây, từ hơn 120 vụ/năm vào đầu những năm 1980 lên khoảng 500 vụ/năm trong những năm gần đây. Theo báo cáo của Ủy ban kinh tế – xã hội châu Á – Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (ESCAP) và Cơ quan Liên hợp quốc về chiến lược giảm nhẹ thiên tai (UNISDR), chỉ tính riêng năm 2011, thiệt hại về kinh tế do thảm họa thiên nhiên gây ra ở châu Á – Thái Bình Dương vào khoảng 294 tỷ đô la, chiếm 80% tổng số 366 tỷ đô la thiệt hại của toàn thế giới và bằng 80% tổng thiệt hại giai đoạn 2000 -2009.[5] Tại châu Á – Thái Bình Dương, vào hàng năm có khoảng 80% dân cư bị ảnh hưởng và hơn 3.100 người bị chết do thảm họa thiên nhiên. Thiệt hại do thảm họa thiên nhiên gây ra ở Indonesia là 1,2% GDP, Việt Nam khoảng 1,8% GDP, Myanmar (1,9% GDP), Malaysia (1,0% GDP), Campuchia (1,0% GDP), Lào (1,7% GDP).
Trước những diễn biến phức tạp, khó lường của thiên tai, năm 1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã lấy ngày thứ tư, tuần thứ hai của tháng mười làm Ngày quốc tế giảm nhẹ thiên tai, nhằm khuyến khích mọi công dân và chính phủ tham gia xây dựng cộng đồng và đất nước có khả năng phòng, chống thiên tai tốt hơn. Năm 2009, Đại hội đồng Liên hợp quốc quyết định lấy ngày 13/10 hàng năm làm Ngày quốc tế giảm nhẹ thiên tai.
Ở nhiều nước trên thế giới, công tác quản lý giảm nhẹ thiên tai được coi là yếu tố chủ yếu quyết định sự thành công của nỗ lực cứu trợ và được bắt đầu từ việc thiết kế qui trình, kế hoạch. Quản lý thảm họa thiên tai thường được mô tả là quá trình bao gồm nhiều giai đoạn của qui trình này. Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về cấu trúc và giai đoạn của qui trình này nhưng về bản chất bao gồm 4 giai đoạn chủ yếu của qui trình, gồm: a, giảm nhẹ; b, chuẩn bị; c, đối phó; d, tái thiết.[6]
– Giai đoạn giảm nhẹ (mitigation phase) liên quan đến luật pháp và các cơ chế giảm thiểu thiệt hại do thảm họa gây ra. Những vấn đề này thường liên quan đến trách nhiệm của các chính phủ trong việc hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách liên quan đến đối phó với thảm họa.
– Giai đoạn chuẩn bị (preparation phase) liên quan đến các hoạt động xảy ra trong giai đoạn trước thảm họa. Giai đoạn này kết hợp chặt chẽ các kế hoạch nhằm thực hiện thành công trong đối phó với thảm họa. Đây là giai đoạn đặc biệt quan trọng, vì chính trong giai đoạn này công tác phối hợp giữa chuẩn bị cơ sở vật chất, các hệ thống thông tin và công nghệ truyền thông là những cơ sở quan trọng của sự hợp tác được thực hiện. Mục đích của giai đoạn này là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người và vật chất do thảm họa gây ra. Trong giai đoạn này cần kết hợp chặt chẽ với những bài học kinh nghiệm đã được rút ra từ những hoạt động phòng chống thảm họa trước đây.
– Giai đoạn đối phó (response phase) liên quan đến các hoạt động sau khi thảm họa xảy ra. Trong giai đoạn này, sự điều phối và hợp tác giữa các đối tác tham gia cứu trợ thảm họa có ý nghĩa rất quan trọng. Mặc dù việc kết nối với những đóng góp, các nhà cung cấp, các tổ chức phi chính phủ và các đối tác khác được thực hiện ngay từ giai đoạn đầu tiên, song nếu sự cố chưa xảy ra thì hoạt động của các đối tác này vẫn chưa được khởi động. Do đó, việc các đối tác liên quan hành động càng nhanh càng tốt, ngay từ ban đầu, bằng bất cứ giá nào được coi là vấn đề cốt yếu của hoạt động cứu trợ thảm họa trong 72 giờ đầu tiên.
– Giai đoạn tái thiết (reconstruction phase) liên quan nhiều đến hoạt động khác nhau sau khi thảm họa xảy ra. Các hoạt động thường liên quan đến việc khôi phục và giải quyết những vấn đề mang tính lâu dài. Tác động của thảm họa có thể kéo dài trong một thời gian tiếp theo và có thể để lại hậu quả nghiêm trọng đối với dân cư trong khu vực thảm họa.
Mỗi giai đoạn của qui trình đều có mục tiêu cụ thể và có thể đạt được thông qua việc áp dụng hai qui tắc của dây chuyền cung cấp là: linh hoạt và hiệu suất. Sự linh hoạt được hiểu là khả năng phản ứng đối với sự thay đổi không được dự báo trước và khi nhu cầu không được dự báo trước nảy sinh trong một thời gian ngắn. Hiệu suất được hiểu là làm được nhiều việc hơn va có kết quả tốt hơn với chi phí thấp hơn. Hay nói cách khác, trong khi sự linh hoạt tập trung vào tốc độ thì hiệu suất tập trung vào chi phí.
Việc áp dụng qui trình quản lý thảm họa của mỗi nước có sự khác nhau tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Qua thực tiễn phòng chống thảm họa thiên nhiên của một số nước trên thế giới có thể rút ra một số nội dung như sau:
1. Thường xuyên coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho nhân dân về phòng, chống thảm họa thiên nhiên
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, được nhiều nước trên thế giới quan tâm nhằm làm cho toàn dân, toàn xã hội nhận thức sâu sắc về vị trí và tâm quan trọng của công tác phòng chống thảm họa thiên nhiên. Ở nhiều nước, công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức chung cho các tầng lớp nhân dân về phòng, chống thảm họa thiên nhiên, để nhân dân luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng hợp tác với các cơ quan chức năng phòng ngừa, hạn chế tổn thất về người và tài sản khi xảy ra luôn được coi trọng. Công tác tuyên truyền giáo dục được thực hiện thường xuyên, liên tục, mang tính hệ thống; kết hợp sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại như phát thanh, truyền hình, báo chí, mạng internet với các hình thức tuyên truyền đơn giản, hiệu quả để nhân dân có được những kiến thức chung về sự nguy hiểm, tác động và hậu quả của thảm họa thiên nhiên.
Tùy theo điều kiện cụ thể mà các nước thực hiện các biện pháp tuyên truyền, giáo dục khác nhau. Ở Nhật Bản, chính phủ rất coi trọng công tác tuyên truyền về thảm họa. Trên các đường phố, người ta dễ dàng bắt gặp các pa nô, áp phich hướng dẫn người dân khi gặp thảm họa xảy ra. Với quan điểm phải truyền lại cho thế hệ sau các bài học kinh nghiệm từ thảm họa, cũng như phổ biến kinh nghiệm cho các nước để cùng hợp tác trong phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai. Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng nhiều bảo tàng, đài tượng niệm, bia đánh dấu mức sóng thần… là những giáo cụ trực quan sinh động nhằm giáo dục và nâng cao ý thức người dân về phòng, chống thảm họa. Trong chương trình các cấp học phổ thông, bên cạnh việc chú trọng giáo dục đạo đức công dân hiện đại qua các chủ đề như: quyền tự do, quyền công dân, tiến bộ xã hội, lợi ích chung, tính rộng lượng, độc lập và tự chủ, nghề nghiệp, sự chăm chỉ, phép xã giao, tính đúng giờ và giữ lời hứa, thì việc giáo dục ý thức phòng, chống thảm họa thiên nhiêm cho học sinh cũng được coi trọng.[7]
Tại đảo Oahu, thuộc quần đảo Hawaii (Mỹ), nơi có nguy cơ động đất và sóng thần rất cao, mặc dù cuộc sống của người dân trên đảo diễn ra bình thường, song trên đường phố hàng ngày, người ta vẫn bắt gặp những chiếc xe cứu hỏa kéo còi chạy dọc ngang. Mục đích là nhằm nhắc nhở người dân không được lơ là, mất cảnh giác trước nguy cơ động đất, sóng thần có thể xảy ra bất cứ lúc nào…
Tại một số nước ASEAN như Indonesia, Philippine, Thái Lan… trong các chương trình của các cấp học trung học cơ sở, trung học phổ thông đều có nội dung giáo dục về môi trường một cách có hệ thống, đặc biệt là nội dung liên quan đến nạn phá rừng, hủy hoại môi trường được coi là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm họa. Ngoài ra, học sinh còn được học các nội dung liên quan đến bảo vệ môi trường sống thông qua việc lồng ghép vào các môn học truyền thống về tự nhiên và xã hội… Tại Sri Lanka, hầu hết các chủa Phật giáo và nhà thờ Hồi giáo dọc bờ biển trong cả nước đều bố trí các loa phát thanh cỡ lớn để truyền đi những thông tin cảnh báo của đài phát thanh hay truyền hình. Chính phủ cũng yêu cầu các đài phát thanh – truyền hình nhà nước tuân thủ việc cảnh báo kịp thời những thông tin về sóng thần…
2. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn xã hội, trong đó lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt
Thực tế cho thấy, không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức tổ chức, đều chịu tác động của thiên tai, thảm họa. Họ vừa là đối tượng được bảo vệ, vừa là lực lượng tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa thiên nhiên. Phòng, chống khắc phục hậu quả thiên nhiên là quyền lợi, trách nhiệm của mỗi người dân, tổ chức. Bên cạnh việc thành lập các tổ chức và lực lượng chuyên trách giải quyết hậu quả thảm họa thiên nhiên, các nước trên thế giới rất coi trọng việc huy động sức mạnh của toàn dân, toàn xã hội trong công tác phòng, chống thảm họa thiên nhiên. Nhiều nước đã cụ thể hóa các hoạt động này thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật, trong đó qui định kết hợp giữa tự nguyện và bắt buộc, kết hợp giữa tự bảo vệ và được bảo vệ, thực hiện xã hội hóa sâu rộng, phát huy sức mạnh của toàn xã hội và sự trợ giúp quốc tế trong phòng, chống thảm họa thiên nhiên.
Sự kiện động đất và sóng thần ở Nam Á (tháng 12/2004) là một minh chứng cho điều đó. Đã có hơn 40 nước và 700 tổ chức phi chính phủ tham gia hoạt động cứu trợ. Đặc biệt, sự trợ giúp của lĩnh vực tư nhân là rất to lớn. Ví dụ, chỉ riêng các công ty của Mỹ đã huy động được 565 triệu USD tiền mặt và vật chất; các tập đoàn công nghiệp dịch vụ như UPS, FedEx, DHL cùng với các đối tác khác đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc vận chuyển miễn phí hàng hóa viện trợ tới khu vực thảm họa. Cả thế giới đã quyên góp được số tiền mặt trị giá 13 tỷ USD và được coi là nỗ lực cứu trợ lớn nhất trong lịch sử loài người[8].
Thực tế cho thấy, ngoài lực lượng chuyên trách, sự tham gia của toàn dân, toàn xã hội, lực lượng quân đội và cảnh sát đóng vai trò rất quan trọng trong phòng, chống thảm họa thiên nhiên của các nước. Trong thảm họa kép động đất – sóng thần ở Nhật Bản, Bộ Quốc phòng Nhật Bản quyết định cử 10.000 binh sĩ lực lượng phòng vệ làm nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn. Hàng chục nghìn cảnh sát và lực lượng dân phòng cũng được huy động tham gia tìm kiếm cứu nạn và duy trì an ninh, trật tự ở những khu vực xảy ra thảm họa, nhất là tại các tỉnh bị thiệt hại nặng nề nhất.
Trong trận động đất xảy ra ngày 20/4/2013 tại thành phố Nhã An, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc đã huy động tổng cộng 18.000 binh lĩnh, sĩ quan quân đội, cảnh sát và lực lượng dự bị làm nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn tại những khu vực bị ảnh hưởng. 23 trực thăng được huy động để vận chuyển hàng cứu trợ, hơn 2.300 nhân viên cứu hỏa, 982 nhân viên y tế cùng 202 xe cứu thương cũng được huy động vào hoạt động này. Ngoài ra, Trung Quốc còn tăng cường các lực lượng y tế và phòng chống dịch bệnh đến các khu vực bị thiên tai nhằm tránh để xảy ra dịch bệnh lớn sau trận động đất…
3. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ trong phòng, chống thảm họa
Khoa học, công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng, tác động đến khả năng, hiệu quả của phòng, chống thảm họa, từ nghiên cứu bản chất, qui luật, dự báo nguy cơ thiên tai, thảm họa đến ứng dụng khoa học công nghệ trong các biện pháp, phương tiện đối phó, khắc phục hậu quả. Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ mới trong các hoạt động ứng phó với thảm họa thiên nhiên được coi là những biện pháp kinh tế nhất để nâng cao hiệu quả đối phó với thảm họa thiên nhiên.
Nhật Bản được coi là nước đi đầu trong nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ dự báo thảm họa. Ngay sau khi có sự cố thảm họa kép động đất – sóng thần xảy ra tháng 3/2011, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định đầu tư 3,5 tỷ Yên (36,5 triệu USD) để nâng cấp hệ thống cảnh báo thảm họa quốc gia. Tại trung tâm của hệ thống (đặt tại quận Otemachi, Tokyo) các chuyên gia cảnh báo thảm họa thiên nhiên của Nhật Bản có thể theo dõi 24/24 giờ mọi rung chấn của trái đất cũng như những vận động nhẹ nhất của núi lửa trên khắp đất nước Nhật Bản. Hệ thống bao gồm các thiết bị có tên gọi thiết bị đo dịch chuyển mạnh băng rộng (Broadband Strong Motion Meters) được lắp tại 80 địa điểm trên khắp nước Nhật Bản, có khả năng đo được nhiều loại sóng địa chấn được tạo ra bởi động đất. Các thiết bị này được thiết kế với độ nhạy thấp để tránh làm cho những cảnh báo trở nên quen thuộc làm cho người dân mất cảnh giác khi động đất mạnh xảy ra…
Sau sự cố sóng thần xảy ra ở Ấn Độ Dương (12/2004), chính phủ một số nước trong khu vực đã quyết định đầu tư lớn cho việc nâng cấp hoặc xây dựng mới các trạm quan trắc và cảnh báo thảm họa, ứng dụng các công nghệ tiên tiến. Đi đầu trong lĩnh vực này là Thái Lan với việc đầu tư xây dựng Trung tâm cảnh báo thảm họa quốc gia ở Nonthaburi, kết nối với Trung tâm Hawaii của Mỹ. Trung tâm này được kết nối với 10 đài truyền hình, hơn 500 đài phát thanh và hơn 20 triệu thuê bao điện thoại di động. Trung tâm có khả năng truyền thông tin cảnh báo sóng thần ngay lập tức tới các đài phát thanh và truyền hình địa phương, gửi gấp 5.000 tin nhắn tới các máy điện thoại di động trong vonhf 2 phút. Trung tâm đã lắp đặt 3 trạm kiểm soát ngoài khơi và 60 tháp cảnh báo thảm họa. Indonesia lắp đặt các trạm kiểm soát sóng thần ở ngoài khơi đảo Sumatra. Ấn Độ đã hoàn thành xây dựng Trung tâm cảnh báo sớm sóng thần từ 9/2007, với tỏng số vốn đầu tư khoảng 26,7 triệu USD…
4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống thảm họa thiên nhiên
Trong thời gian qua, các nước đã đẩy mạnh các hoạt động hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực như: trao đổi thông tin, kinh nghiệm, xây dựng cơ sở dữ liệu về thảm họa thiên nhiên; trợ giúp phương tiện kỹ thuật, huấn luyện, đào tạo nhân lực, tổ chức các hội thảo, hội nghị định kỳ, phối hợp tổ chức diễn tập tìm kiếm cứu nạn tăng cường năng lực ứng phó với thảm họa thiên nhiên. Một số nước đã thỏa thuận thiết lập đường dây nóng giữa các lực lượng chuyên trách để chia sẻ thông tin, kịp thời thông báo khi tình huống xảy ra, nhất là trong các trường hợp cần trợ giúp tìm kiếm cứu nạn và khắc phục hậu quả do thảm họa gây ra. Hợp tác trong lĩnh vực phòng, chống thảm họa giữa các nước được tiến hành cả song phương và đa phương, đã phát huy hiệu quả thiết thực, củng cố sự hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, giúp nhau cùng phát triển.
Trong lĩnh vực hợp tác phòng, chống thảm họa thiên nhiên, hiện nay có các tổ chức, diễn đàn quốc tế, khu vực như: Diễn đàn quốc tế về giảm nhẹ thảm họa (GFDRR); Khung hành động Hyogo về giảm nhẹ rủi ro thảm họa (HFA); Khung hành động của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC); Thỏa thuận ASEAN về giảm nhẹ và ứng phó thảm họa (ADDMER). Đặc biệt, gần đây là sự ra đời của Nhóm làm việc về hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa (HADR) trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) với sự tham gia của 10 nước ASEAN và 8 nước đối thoại. Đây được coi là hoạt động thực chất, hiệu quả giữa ASEAN và các nước đối thoại. Thông qua kênh hợp tác này, các nước ASEAN có thể trao đổi nguồn lực với các nước đối thoại, đồng thời tìm kiếm các cơ chế hợp tác trên cả bình diện chiến lược cũng như cấp hành động nhằm làm cho các hoạt động hợp tác đạt hiệu quả cao. Một mặt, các nước ASEAN thu hút được nguồn lực, kinh nghiệm từ các nước đối tác để giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống nói chung và thảm họa thiên nhiên nói riêng. Mặt khác, các nước ASEAN cũng sẵn sàng chia sẻ các nguồn lực, kinh nghiệm, thế mạnh của mình đối với các nước đối tác, tăng cường sự hiện diện, vai trò quốc phòng của Hiệp hội trong khu vực và trên thế giới.
5. Tích cực, chủ động phòng, chống thảm họa thiên nhiên
Khắc phục hậu quả rất cần thiết nhưng mới giải quyết phần ngọn. Khi đã xảy ra, dù cố gắng đến đâu chúng ta cũng chỉ có thể khắc phục được một phần tổn thất. Đặc biệt, tổn thất về người là không thể bù đắp được. Do đó, các nước rất coi trọng công tác nghiên cứu nhằm giải quyết tận gốc, tìm cách hạn chế nguyên nhân dẫn đến thảm họa thiên nhiên. Đặc biệt là việc nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân, qui luật diễn biến, tác động và tìm biện pháp phòng tránh, đối phó phù hợp, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả do thảm họa gây ra. Các nước đều coi trọng cả phòng ngừa và ứng phó; chuyển từ bị động đối phó sang chủ động phòng, chống và kịp thời khắc phục hậu quả thiên nhiên.
Sau sự cố ngập lụt kéo dài cuối năm 2011, Thái Lan đã tiến hành các biện pháp tích cực, chủ động trong phòng, chống thảm họa thiên nhiên, thể hiện qua việc thực hiện các biện pháp phòng, tránh lâu dài như: giáo dục, tuyên truyền để cộng đồng nhận thức được nguy cơ, tác hại của thiên tai, thảm họa, hạn chế những hành động do thiếu hiểu biết, thiếu trách nhiệm có thể gây ra thảm họa; xây dựng nhưng khu dân cư tránh lũ, đào kênh mương thoát nước, trồng rừng, kết hợp thủy điện và trị thủy… Kịp thời tiến hành các biện pháp cấp thiết như xây dựng kế hoạch sơ tán, phân tán người, dự trữ lương thực, thực phẩm…. đề phòng khi có nguy cơ xảy ra thiên tai, thảm họa.
Trong chủ động phòng, chống và khắc phục hậu quả thảm họa, dự báo thảm họa có ý nghĩa rất quan trọng. Đã có nhiều kinh nghiệm được rút ra từ những thảm họa thiên nhiên lớn xảy ra trong những năm vừa qua như vụ sóng thần Ấn Độ Dương (12/2004), cơn bão Katrina ở Mỹ (2005), cơn bão Nargis ở Myanmar (năm 2008), thảm họa kép động đất – sóng thần ở Nhật Bản (năm 2011), trận lụt kéo dài 6 tháng ở Thái Lan cuối năm 2011…
Ở Việt Nam, mặc dù cơn bão Chanchu năm 2001 không đổ bộ vào đất liền nhưng vẫn trở thành thảm họa do dự báo sai; trận lụt lịch sử ở Hà Nội tháng 11/2008 đã xảy ra chỉ sau một cơn mưa lớn vì hệ thống thoát nước đã không chống đỡ được…
Bài học kinh nghiệm qua những trận bão, lũ, động đất… cho thấy nếu chủ động làm tốt công tác dự báo, kịp thời có các phương án đối phó, người dân được trang bị đầy đủ trang bị và kiến thức, hậu quả do thảm họa gây ra sẽ giảm đi. Nếu hệ thống thoát nước, thủy lợi được thiết kế hợp lý, các thành phố sẽ tránh được ngập lụt. Nếu qui hoạch dân cư bảo đảm khoảng cách an toàn với các dòng sông, lũ quét sẽ tác động ít đến người dân hơn…
Giảm thiểu rủi ro, thảm họa là quan điểm và biện pháp
giảm thiểu các rủi ro thảm họa thông qua những nỗ lực mang tính hệ thống để
phân tích và quản lý các nguyên nhân thảm họa, bao gồm việc giảm mức độ nguy
hiểm trước hiểm họa, giảm tình trạng dễ bị tổn thương của con người và tài sản,
quản lý hiệu quả đất đai, môi trường và cải thiện khả năng phòng ngừa các sự
kiện bất lợi, nhưng có thể hiểu nôm na là thay vì “ứng phó” với thiên tai,
chúng ta sẽ “ngăn chặn” trước thảm họa. Như vậy, đối phó với thiên tai không
còn chỉ là chống chọi khi nó đến và khắc phục khi nó đi qua, mà là làm trước
mọi công việc chuẩn bị để nó không gây thiệt hại lớn. Do đó, những bài học kinh
nghiệm rút ra từ thực tế phòng, chống thảm họa thiên nhiên của các nước trên
thế giới có ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam cả trước mắt và lâu dài./.
[1] L.N. Van Wassenhove, Hỗ trợ hậu cần nhân đạo: Quản lý dây chuyền cung cấp trong một môi trường đòi hỏi cao (Humanirian aid logistics: supply chain management in high gear), Jourbal of the Operational Research Society 57,475 -489 (May 2006).
[2] Munich Re, Thống kê thường niên 2012 (Annual Statistics 2012).
[3] Cozzolino, Bảo đảm hậu cần cứu trợ nhân đạo (Humanitarian Logistics), Springer Briefs in Business, 2012.
[4] Steven Perlberg, Biến đổi khí hậu gây ra thảm họa thiên nhiên (Climate chang cause natural disasters), Washington University Political Review, 11/12/2012.
[5] ESCAP & UNISDR,, Báo cáo thảm họa thiên nhiên châu Á – Thái Bình Dương 2012 (the Asia -Pacific Disaster Report 2012).
[6] Cozzolino, Bảo đảm hậu cần cứu trợ nhân đạo (Humanitarian Logistics), Springer Briefs in Business, 2012.
[7] Viện Nghiên cứu Văn hóa truyền thống NHK, Cơ cấu ý thức người Nhật hiện đại (xuất bản lần thứ 7), Hiệp hội xuất bản truyền thông Nhật Bản, Tokyo, 2010.
[8] Cozzolino, Bảo đảm hậu cần cứu trợ nhân đạo (Humanitarian Logistics), Springer Briefs in Business, 2012.
PGS.TS Đỗ Cảnh Thìn